CÀNH BÔNG GIẤY
Đặng Phi Hùng
Người ta không thể vươn tới tương lai nếu chỉ cố bám riết vào quá khứ, nhưng nếu không có quá khứ làm điểm tựa, người ta cũng chẳng biết tương lai ở đâu để mà vươn lên. Làm người, ai cũng có một quá khứ. Quá khứ chính là mình trải qua với bao nhiêu cảnh ngộ và cảm xúc. Kỷ niệm nào mà không đẹp? Thường ký ức đau buồn vẫn in đậm nét và sâu sắc. Nhưng buồn hay vui, nó đã đánh dấu từng khoảnh đời đã qua. Dù chỉ một ngọn cỏ, cành hoa, làn gió thoảng, một ánh mắt, nụ cười, hay giọt lệ thở than… thế thôi, cũng đủ làm cho ăn sâu vào da thịt. Rồi ở một khoảnh khắc nào đó trong cuộc sống, kỷ niệm lại được khơi dậy, lần lượt trở về…

Chương 1
Ký ức…
Ở đây, có những buổi chiều lái xe qua con phố nhỏ, chợt thấy một giàn bông giấy nhà ai rực rỡ nở bên đường. Có thể nói bông giấy là loại hoa đồng cỏ nội, được xếp vào loại cây leo. Ngay từ cái tên khiêm tốn của nó, bông giấy đã mang vẻ mộc mạc như cô gái quê, đẹp với bản sắc tự nhiên. Bông giấy không lộng lẫy như cành mẫu đơn, không kiêu sa như hoa lan, không đa tình như hoa hồng, không khoe màu như hoa cúc, và cũng không tỏa hương quyến rũ như đoá quỳnh hương … Nhưng với tôi, hoa bông giấy đẹp một cách an nhiên bình dị, đẹp như câu chuyện tình, đẹp tựa một bài thơ…
Thông thường, bông giấy có màu hồng tươi. Lớn lên tôi mới biết bông giấy không hẳn chỉ có màu hồng đỏ, mà nó còn mang nhiều màu khác nữa. Có khi màu vàng da cam tươi mát, khi màu tím đa tình lãng mạn, hay màu trắng trinh nguyên như tà áo tuổi mộng học trò. Với tôi màu nào cũng đẹp, cũng dễ thương. Nhưng cho dù màu nào đi nữa, nó đã mang ấn tượng sâu sắc với tôi ngay từ thời thơ ấu. Nhất là những cành bông giấy màu hồng tươi thăm thắm đỏ. Nó gợi lại trong tôi hình ảnh của những buổi chiều mùng ba Tết, khi những cánh mai vàng bắt đầu rơi rụng, đánh dấu sự tàn tạ của những ngày Xuân. Những cánh hoa bông giấy màu hồng nhung đỏ thắm như xác pháo hồng, tả tơi trong gió bay bay về miền dĩ vãng …
Nhớ tới quê mình năm xưa, tôi thương cha tôi một đời vất vả. Bố thương con, nhưng là một người độc đoán và nóng tính. Ngày bé chúng tôi thường sợ bố, vì những gì bố nói là phải làm ngay. Lớn lên tôi hiểu gánh nặng vật chất, tinh thần mà ông đã phải mang. Không biết tôi có thừa hưởng được ở bố tôi sức mạnh tinh thần ấy hay không? Tuy vậy nhưng bố là con người mang nhiều hoài niệm. Ở điểm này có lẽ tôi giống bố. Vì mỗi khi nhớ lại những ngày tháng tuổi thơ, những cái Tết nơi quê nhà, tôi luôn bất chợt thấy mình bồi hồi rung động, với trái tim vẫn còn biết xôn xao trước những hoài niệm, ký ức xa xôi. Những năm tháng ấy, những cái Tết nhà quê ấy, đã làm cho tôi hiểu một cách thấm thía đậm đà:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn.
(Chế Lan Viên)
Và dĩ nhiên, ngập tràn ký ức của tôi...
Một chiều Xuân năm xưa, cái Tết mà khiến tôi nhớ mãi như mới ngày hôm qua. Tâm lý của hầu hết những trẻ con ở Việt Nam là mong sớm đến Tết để được mặc quần áo mới, và nhất là được người lớn cho tiền mừng tuổi, gọi là tiền lì-xì. Riêng tôi món tiền lì-xì đầu tiên trong đời vào lúc tôi năm tuổi, khi còn chưa đi học. Đó là đồng bạc giấy năm đồng có hình con công màu xanh mới tinh, xếp trong phong bao màu đỏ. Tuổi thơ tôi chưa biết tiêu tiền, nên sau Tết là gom lại gửi mẹ cất giữ. Rồi mỗi năm mỗi lớn, tôi dần dà khám phá ra giá trị của đồng tiền. Nhờ tiền có thể dùng để mua những gì tôi thích, nhất là những món quà bánh bán rong hấp dẫn mà mẹ tôi thường cấm, vì sợ kém vệ sinh khiến chúng tôi đau bụng.
Năm ấy tôi đã mười ba, đã biết cất giữ tiền lì-xì không gửi mẹ nữa. Mùng ba Tết, tôi theo bố đi thăm họ hàng. Bạn của bố đánh cho một cây bông giấy màu hồng nhạt. không hiểu tại sao bố lại ao ước trồng một giàn bông giấy truớc sân nhà đến thế. Đường về, ngồi phía sau ôm cây bông giấy vòng ngang lưng bố, mỗi khi qua đoạn đường xấu bố lái xe chậm lại, thỉnh thoảng hỏi cây bông có còn tươi không? Chắc bố quý nó lắm! Có lẽ bông giấy đã đem lại cho bố một hoài niệm xa xưa nào đó. Ừ nhỉ, suốt đường về với cảm xúc bố miên man kể tôi nghe về kỷ niệm của bố và mẹ...
Ông nội tôi là điền chủ nhà quê, đồng ruộng bạt ngàn đất Ninh Bình. Ông ngoại làm hiệu trưởng dạy học nơi ngôi trường làng huyện Nho Lâm, tỉnh Thái Bình, miền Bắc. Bố được gởi lên trọ học ở đây. Theo lời bố kể, sân trường có trồng thật nhiều hoa bông giấy. Bên những biến chuyển đổi thay của đất nước, bố vào trung học. Thế rồi, chỉ một lời hứa hẹn giữa bà ngoại và bà cố tôi, về sau bố mẹ đã nên vợ, nên chồng. Không có câu chuyện tình lãng mạn, cũng chẳng có nhiều thời gian lẫn không gian luyến ái hẹn hò. Chuyện “Tình” của bố mẹ trong thời loạn ly, đơn sơ mộc mạc nhưng chân tình như cành hoa bông giấy...
Những mẩu chuyện ngắn dài như thế, bố mẹ kể lại loáng thoáng nay một ít, mai một ít... Mà lạ chưa, chúng tôi nghe hoài không chán. Miền Bắc quê cha đất tổ năm xưa, như là một huyền thoại đối với chúng tôi. Theo đường chim bay Sài Gòn - Hà Nội chỉ độ một ngàn sáu trăm cây số, nhưng nghe sao vời vợi thân thương, gần gũi quá mà cũng xa xôi quá! Trong trí tuởng tượng của tôi, một thằng bé con lúc ấy không thể hình dung ra được. Ý niệm về không gian và thời gian của tôi hoàn toàn mơ hồ. Nhưng tôi biết chắc kỷ niệm của bố mẹ chắc là phải đẹp. Không đẹp sao, khi cây “Tình Yêu” nặng trĩu tám bông hoa? Tám chị em chúng tôi được rải đều trên suốt chiều dài đất nước. Ba chị lớn, chị Chi, chị Diệp, chị Khanh sanh ra ở Sơn Tây miền Bắc. Chị Khanh chưa đầy năm, bố lại đưa gia đình vào miền Trung nơi bố làm việc. Từ đây, làng mạc thân quen đành bỏ lại tất cả! Để rồi, nước non ngàn dặm ra đi...
Nhìn trên bản đồ Việt Nam, miền Trung dẻo đất thắt lại như cái eo thon của người thiếu nữ. Một bên núi rừng Trường Sơn trùng điệp, một bên trông ra biển Đông xanh ngát với những cồn cát chập chùng. Cảnh đẹp thật hữu tình, thơ mộng! Về sau lớn lên có dịp trở về thăm lại quê hương, tôi nhận ra một điều, nơi đâu cảnh càng đẹp bao nhiêu người dân lại càng nghèo khó, khốn khổ bấy nhiêu. Miền Trung, nơi đây đất hẹp người thưa, người dân quê đời sống nghèo, lại thêm cảnh lụt lội thiên tai hàng năm. Thực vậy, miền Trung là vùng đất quê hương gánh chịu nhiều nỗi bất hạnh, thiệt thòi, như đứa con thiếu tháng của mẹ Việt Nam, khi mới sinh ra đã khó nuôi èo uột. Cũng nơi đây tôi cất tiếng khóc chào đời. Trời đã sắp xếp cho tôi làm đứa con thứ tư trong gia đình của bố mẹ. Và từ đó…
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi,
Mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn.
Trời hành cơn lụt mỗi năm,
(Trường Ca Mẹ Việt Nam - Phạm Đình Chương)
Chương 2
Đà Nẵng
Đà Nẵng, nơi tôi sinh ra và lớn lên với tuổi ấu thơ êm đềm và an bình. Vùng ký ức khởi đầu là đây. Tôi còn nhớ mang máng quanh làng, núi Sơn Trà, xa xa là Ngũ Hành Sơn, bãi Mỹ Khê, bãi Thanh Bình… Những buổi trưa nóng nực ông nội thường dắt lũ trẻ con chúng tôi ra tắm biển. Mẹ dạy học trong một ngôi trường nhỏ trong làng. Trước nhà tôi là con đường cái, đây cũng là con đường lớn duy nhất có trải đá xanh, một đầu dẫn lên Thị Xã Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, một đầu là con Phố Chợ nho nhỏ hàng quán lưa thưa. Miền thùy dương gió cát, đứng trên con đường cái gió biển lồng lộng thổi, tầm mắt có thể nhìn thấy rất xa. Lác đác những mái nhà tranh ẩn hiện bên hàng dừa xanh nghiêng bóng đổ. Còn lại là ruộng đồng im ắng xa tít tận cuối trời. Trên con đường cái ấy, lúc nào cũng êm ả, cả ngày chỉ có vài chiếc xe bò lóc cóc chở những đụn rơm đi ngang. Ở đây thực sự là cảnh đồng quê.
Thỉnh thoảng một vài chuyến xe hàng chạy ngang nhà. Những chuyến xe nối liền Đà Nẵng và con Phố Chợ. Mỗi lần thấy bóng chiếc xe từ đàng xa, lũ trẻ con chúng tôi vội rủ nhau chạy ùa ra đứng sát hai bên đường để xem. Phải, chỉ xem thôi chẳng biết để làm gì? Dù sao đây cũng là cái văn minh cơ giới mà chúng tôi có thể trông thấy được. Nó khác xa với những chiếc xe bò, xe ngựa của đồng quê, chúng tôi đã nhìn mãi quen chán mắt. Nói cho đúng, chiếc xe hàng có gì là văn minh hiện đại đâu. Trông nó già nua cũ kỹ đến là tội nghiệp! Cái mui xe trông mới thật thảm thương hơn, chất đầy hàng hoá, lỉnh kỉnh, những lồng gà, lồng vịt, đôi khi trong rọ có cả một vài con heo. Một lần xe ngừng lại chết máy, hàng khách đổ xuống hai bên đường nấp dưới bóng râm của gốc cây hóng mát chờ sửa xe. Bác tài ngồi sau tay lái, trong khi đó anh lơ xe cầm cây sắt thọc vào đầu máy và quay. Cả thân xe hục hặc rung mình như một người bị bệnh suyễn lâu năm, khạc ra một đám khói đen kịt. Anh loay hoay mãi một hồi lâu mồ hôi nhễ nhại. Sau một hồi vất vả, xe cũng nổ máy, anh lơ kêu mọi người lên xe. Trong xe chật ních, vài người còn đứng bám đu đưa trên cái cản gỗ phía sau xe nữa. “Con trâu già” ì ạch lăn bánh, thả những đám khói lẫn với bụi cát mịt mù. Xe chạy đi mất hút, đám trẻ con chúng tôi đứng bên lề đường trông theo nuối tiếc ngẩn ngơ. Rồi cánh đồng quê yên lặng lại trở về với cái tĩnh mịch bình thường của nó.
Nhà tôi đó, trong trí nhớ lãng đãng của tôi có lợp ngói màu nâu đỏ, vách ngăn bằng gỗ, nền tráng cement mát lạnh. Trước nhà hai cây soan già cằn cỗi, tàn lá không đủ rộng che nền sân trước nên mỗi khi chiều xuống, nắng vẫn như còn hâm hấp lên những viên gạch tàu xếp vuông vắn. Cũng cái sân lót gạch tương đối phẳng phiu này hàng xóm thường mượn để phơi lúa hay có khi là những lát khoai cắt mỏng.
Hai gian nhà trên, cách một khoảng sân là nhà bếp ở phía sau. Sân sau là một vườn hoa nho nhỏ. Đó là nơi tôi thích nhất vì có bóng râm mát. Ông nội tôi thường nằm võng ngủ trưa ở đây. Ông nội có một hòn non bộ nhỏ, trong đó dăm ba con cá vàng bơi lội. Trên hòn giả sơn là dàn thiên lý xanh mướt, đó là cái thế giới thu nhỏ lại của ông. Bà nội trồng vài cụm hành, một ít rau thơm và cây ăn trái quanh nhà. Cuối cùng là cái ao nhỏ nước phẳng lặng rêu xanh, thỉnh thoảng có ít bọt sủi lên, do cá đớp động dưới chân đám bèo hoa lấm tấm. Cạnh bờ ao là một cây sung không biết đã được trồng từ năm nào, thân cây to sần xùi có vài cành ngã oằn oại trên mặt nước. Các anh học trò lớn của mẹ thường tinh nghịch cõng tôi leo lên những cành sung ấy, rồi đu từ cành này sang cành khác như một lũ khỉ. Chơi chán các anh nhảy ùm xuống ao, để lại tôi một mình trên cành cây như con mèo nhỏ co rúm lại sợ ngã mà không dám tuột xuống.
Sau mỗi trận mưa, trời lại nắng hanh vàng, không hiểu sao bươm bướm ở đâu kéo về nhiều thế? Các chị học trò của mẹ, dắt mấy chị em tôi đuổi bắt những con bươm bướm màu sặc sỡ, bay lượn trong khoảnh vườn sau. Những hôm nắng ráo đẹp trời, các anh cõng tôi chạy rong chơi băng qua những cánh đồng lúa non xanh ngát, còn thơm mùi lúa mạ. Chúng tôi bắt những con châu chấu nhỏ xanh như màu lúa, đem về cho con sáo của bà nội ăn. Có hôm mạo hiểm chúng tôi đi xa hơn, để ngắt những bông hoa dại bên bờ ruộng đem về nhà chơi. Những bó hoa xinh xinh nho nhỏ, nhiều màu sắc ngây ngô như cái tuổi thơ vô tư hồn nhiên của chúng tôi.
Đó là những tháng năm thần tiên của ngày xưa còn bé. Cuộc sống bình dị, nơi thôn dã hiền hòa. Hồn quê đất Việt đã thấm trong tôi từ dạo ấy. Cảnh đồng quê khoảng khoát, không khí trong lành. Hương đồng cỏ nội là đây, cái mùi của quê hương cũng là đây. Phải, nó nồng nàn đậm đà lắm kìa! Nó ấm áp như tình mẹ! Thành thật mà nói, sau này có dịp đặt gót chân lên nhiều nơi trên xứ lạ, đi đến một số nơi nổi tiếng trên thế giới. Dù cảnh vật có đẹp đến mấy, có hùng vĩ, thơ mộng đến mấy, giữa trời đất mênh mông, tôi vẫn cảm thấy lòng như xa lạ, dửng dưng. Tôi vẫn chẳng bao giờ có được cái cảm giác giữa mình với thiên nhiên là một mối tâm cảm giao hòa. Quả thật, chưa bao giờ tôi tìm lại được cái mùi của quê hương dạo ấy. Cái mùi của làng quê tôi, mùi cỏ cây, đất bùn, phân bò, và nước đái trâu… nó hăng hăng quyện lẫn vào trong nắng gió. Chính nó đấy, cái mùi của tuổi thơ với làng mạc quê hương. Như đứa trẻ thơ quen hơi sữa mẹ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức trong tôi khó phai nhoà.
Đến một ngày, vì công việc bố mẹ lại đổi chỗ ở vào Sài Gòn. Trước ngày chia tay hàng xóm láng giềng mang quà đến tiễn đầy nhà. Họ chả có gì ngoài cây trái trong vườn, như trái dừa tươi, rổ đậu phọng, nải chuối hương… Quà không có chi đáng giá nhưng nói lên tâm tình mộc mạc của người dân quê. Mấy anh chị học trò của mẹ, cũng đến lăng xăng phụ giúp dọn nhà và sắp xếp hành lý. Hành trang cũng chẳng có gì, đơn sơ nhẹ tênh, nhưng tình xóm giềng nặng trĩu đầy ắp ân tình. Chạnh nghĩ, lần trước bố mẹ tôi từ Bắc vào Trung, ngậm ngùi với nước non ngàn dặm ra đi… Lần này từ Trung xuôi về Nam, con đường thiên lý cũng xa vời vợi, khó lòng có ngày được gặp lại nhau. Mỗi chặng đường, mỗi khoảnh đời đó, dường như đã bám vào gia đình tôi thêm một mảnh tình lưu luyến.
Buổi sáng sớm mờ sương, trời hãy còn chưa sáng tỏ, mẹ đã đánh thức chúng tôi dậy. Một ít người hàng xóm, và học trò của mẹ, họ đến để đưa tiễn chúng tôi ra mãi tận sân ga. Lần đầu tiên trước sân ga Đà Nẵng. Thằng bé con như tôi từ nhà quê ra tỉnh bỗng choáng ngợp với cảnh phồn hoa. Nhà cửa san sát nhau, phố xá nhộn nhịp, xe cộ chạy ngược xuôi. Chiếc xe hàng dừng lại ở ga Đà Nẵng. Ơ kìa, người đâu sao mà đông thế! Người ta chen lấn nhau qua lại, hành lý chất đầy ngổn ngang trước sân ga. Tiếng người gọi nhau, tiếng heo kêu, tiếng gà vịt, những con chó chạy lăng quăng, cảnh nhộn nhịp huyên náo, âm thanh hỗn độn huyên náo khác hẳn với cái êm ả của đồng quê. Mấy chị em tôi đứng tụm vào một góc có ông bà nội trông chừng, trong khi mẹ đi mua vé tàu. Mẹ dặn kỹ không được chạy lung tung kẻo lạc. Tôi vừa nắm chặt tay ông nội vừa ngóng cổ nhìn dáo dác cảnh vật xung quanh.
Nhìn đầu máy xe lửa to lớn như một cái nhà, móc theo cả mấy chục toa tàu. Chiếc bánh xe lửa bằng sắt to như cái thúng, rồi đường rầy cũng bằng sắt nữa. Những ống hơi, dây điện chằng chịt dưới gầm xe. Nhiều toa tàu nối liền với nhau trông con tàu như một con rết khổng lồ, chúng tôi thi nhau đếm, nào là một toa, hai toa, ba toa, bốn toa… Tôi say mê ngắm nhìn tỏ vẻ thích thú lắm. Ồ! Đây mới thật sự là văn minh cơ giới!
Mẹ đã trở lại với mấy tấm vé tàu. Đã đến lúc chia tay, còi tàu hụ lên những tiếng như giục giã. Mấy anh chị học trò lớn của mẹ giúp chúng tôi lên tàu, xếp đặt thu dọn chỗ ngồi. Trong toa tàu, tôi nhón gót nhìn qua khung cửa sổ, ngoài kia những bàn tay vẫy những bàn tay, những chiếc khăn màu bay thổn thức. Bịn rịn, ngậm ngùi… Hình như có những khuôn mặt đang rươm rướm nước mắt. Trong toa tàu cảnh nhộn nhịp không kém bên ngoài, chật chội và ồn ào. Cả gia đình tôi chỉ có một khoảng không gian nhỏ hẹp. Mẹ đang lục trong giỏ soạn ra những nắm cơm lo phần ăn trưa cho cả nhà. Tôi ngồi sát trong lòng ông nội. Con tàu khẽ chuyển mình, tiếng bánh xe bằng sắt nghiến trên đường rầy tạo thành những âm thanh không dễ chịu chút nào. Cảnh vật hai bên đường lùi lại phía sau, Đà Nẵng mỗi lúc một dần xa, một dần xa…
Tạm biệt Đà Nẵng, không ngờ cho mãi đến hơn bốn mươi năm sau tôi mới có dịp cùng với mẹ trở lại nơi này. Mẹ tôi cho ngừng xe lại ở một khoảng đường áng chừng là nếp nhà cũ năm xưa, mẹ có hỏi thăm vài người xem ai còn, ai mất. Hai mẹ con đều thất vọng vì cảnh vật cũng đã đổi thay và người xưa cũng chẳng còn ai quen biết. Bao nhiêu năm qua biết bao vật đổi sao dời, đời người trôi nổi, cảnh vật cũng nổi trôi...
Ngày ấy, rời Đà Nẵng lên xe lửa vào Sài Gòn tôi còn nhỏ, chưa biết buồn vấn vương nhiều khi chia tay. Nhưng tôi đã hiểu một cách lờ mờ là từ nay, tôi sẽ không còn được những anh học trò lớn của mẹ, cõng đi rong chơi khắp thôn xóm làng quê nữa. Thôi nhé, từ nay đã hết rồi những tháng ngày êm ả rong chơi của tuổi thơ. Bức tranh quá khứ dần dần đậm nét bằng những vệt màu ngây dại.
Chương 3
Chị em tôi
Vào Sài Gòn, mẹ mua căn nhà ở ngoại ô. Tuy không giống như phong cảnh đồng ruộng Đà Nẵng, nhưng cũng rộng rãi vì ở xa phố xá thị thành. Nhà cất theo loại phố cổ có lầu, mặt tiền hơi nhỏ một chút, nhưng có chiều sâu. Đằng trước nhà là một khoảnh sân khá rộng đủ chỗ cho chúng tôi chơi đùa. Một cây trứng cá, đến mùa mưa đơm trái mấy chị em tôi hái được hàng rổ rửa sạch ăn ngọt lịm. Vườn sau dài hun hút có trồng nhiều cây ăn trái như soài, ổi, mít… Sau mỗi cơn mưa bươm bướm cùng rủ nhau kéo đến bay lượn đầy vườn. Tội nghiệp những cánh bướm đủ màu vàng, xanh, tím, đỏ… thường bị chúng tôi thi nhau đuổi bắt. Mấy chị tôi ép vào trang giấy trong cuốn Lưu Bút mỗi độ hè vè.
Năm sau, tôi đủ tuổi học lớp Một. Bắt đầu là cậu học trò bé nhỏ bị mẹ đẩy đến trường. Ngày đầu tiên, tôi ngồi im thin thít trên ghế trong lớp học. Hồi đó tôi nổi tiếng là một học sinh ngoan ngoãn và nhút nhát. Từ đây tôi đã nhớ được nhiều chuyện hơn. Sau bữa cơm tối, ông bà nội thường uống nước trà rồi đi ngủ sớm. Bên ngọn đèn dầu, bố ngồi đọc báo và học thêm Anh ngữ. Các chị lớn học bài trên lầu. Đám con nít lóc nhóc chúng tôi thu xếp bài vở cho ngày hôm sau xong, thường xúm xít vây quanh mẹ nghe chuyện ngày xưa. Những ngày mẹ mới về làm dâu nhà ông bà nội. Là cô gái tỉnh thành, mẹ đâu rành rẽ những công việc đồng áng của nhà quê, nên thường bị các bà cô bên nhà chồng ganh ghét. Mỗi khi nghe kể đến đoạn có ai ăn hiếp mẹ. Chúng tôi ấm ức lắm đua nhau hỏi:
- Ơ, tại sao mẹ không làm thế này, sao mẹ không làm thế kia? Sao mẹ dại thế?
- Sao mỗi lần đi chợ, mẹ phải lấy tiền túi ra bù vào, vậy thì lỗ lắm mẹ ạ!
- Con thì không chịu như vậy đâu?
Thường thường, mẹ chỉ cười xòa:
- Kể cho mấy đứa nghe vậy thôi. Chuyện cũ đã lâu mẹ quên hết rồi! Làm người phải biết quên những chuyện nên quên, và phải biết nhớ những gì cần nhớ.
Thật là chán cho tôi quá, tôi thường làm ngược lời mẹ dạy. Thằng người dại khờ như tôi, hay nhớ những chuyện nên quên, và lại hay quên những gì cần nhớ! Tôi chẳng bao giờ có được cái tâm nhân ái hiền hòa của mẹ. Tội nghiệp mẹ, cả đời chả biết giận ai được lâu, chuyện gì cũng có thể nhẫn nhục bỏ qua hết. Mẹ còn nói:
- Phải biết chín bỏ làm mười, lấy tấm lòng mà đối xử với mọi người, đôi khi chịu thiệt thòi một chút có sao đâu.
Bài học đầu đời mẹ đã dạy chúng tôi, đó là tấm lòng tha thứ.
Mùa Đông về, đất trời trắng xóa với màu mưa, những con đường ngoại ô lầy lội, ướt lẹp nhẹp. Chỉ nghe tiếng mưa rơi rào rào trên mái tôn là đoán biết cơn cơn mưa nhỏ hay lớn. Sau mỗi cơn mưa lớn con đường trước nhà tôi sũng nước vàng đục như một con sông nhỏ. Trên cái "dòng sông nhỏ" ấy kéo theo những đống rác thải ra từ mọi nhà. Phải chờ đến hai ba tiếng sau nước mới rút đi hết, để lại những vệt bùn nâu đen sền sệt. Gió mưa lạnh lẽo làm người ta khó kiếm ra cái ăn, nhưng lại khiến con người mau đói. Chúng tôi ngồi vây quanh nghe mẹ kể chuyện đời xưa và chia nhau ăn những vắt cơm nóng từ tay mẹ. Chút nước mắm kho tiêu ăn với cơm nóng vẫn ngon. Lon tép kho rang vàng, đôi quả cà, vài trái cà chua, bó rau muống, mồng tơi, một ít tôm kho… đủ để mẹ tôi biến thành những món ăn đơn giản ngon lành. Nồi cơm được vét tận đáy. Mẹ âu yếm nhìn chúng tôi chép miệng: "Đúng là của không ngon, nhà nhiều con cũng hết!"
Tôi lên lớp Ba trường làng, trong khi bà chị lớn đã vào Trung học. Từ nhỏ vốn bẩm sinh yếu đuối nên tôi không ưa trò đánh nhau vật lộn, chỉ thích những trò chơi nhẹ nhàng như bắn bi, đá cầu, đá dế… Nhưng dù sao tôi cũng là một thằng bé ưa nghịch ngợm, chạy nhảy leo trèo, ít khi chịu ngồi yên. Cho nên trên người lúc nào cũng mang ít nhất một vết trầy xước, chả bao giờ tôi được lành lặn nguyên con.
Chị Chi, con chim đầu đàn của tám chị em tôi, đúng là chị Hai. Tánh chị ngăn nắp gọn gàng sạch sẽ. Cứ mỗi chiều chị đứng trước sân kêu chúng tôi về, thiếu điều khan cả tiếng. Hai đứa em gái Hương, và Trang của tôi thì ngoan hơn nhiều, chỉ có tôi là tệ nhất, tôi thường bị la hoài vì cái tội la cà mãi chơi bên hàng xóm, mặt mày lem luốc, quần áo lôi thôi. Chị bắt tắm rửa sạch sẽ rồi mới cho ăn cơm.
Chi Diệp, tánh hiền dịu hơn, nhưng chị hay nói nhiều, và nói dai lắm. Đứa nào không nghe lời chị là mệt hai cái lỗ tai lắm đó. Chị Diệp chăm chỉ có khiếu nấu đồ ăn, công việc bếp núc trong nhà chị Diệp một tay giúp mẹ.
Rồi đến chị Khanh, với chị Khanh tôi có nhiều chuyện để nói, vì tôi kế sát chị. Chúng tôi, bốn đứa choai choai, chị Khanh, tôi, và Hương, Trang thường chơi chung với nhau. Tuổi thơ của tôi, dù muốn hay không, những hôm trời mưa hay thiếu người, tôi bị rủ chơi chung những trò chơi con gái như đi chợ, nấu cơm, bán đồ hàng… Không nhút nhát như tôi, chị Khanh tánh gan lì còn hơn con trai. Hồi nhỏ đi học tôi hay bị bọn trẻ trong xóm ăn hiếp, chị thường đứng ra bênh vực. Nếu cần chị có thể vật lộn với chúng, tôi đứng xa xa ôm cặp trong chúng. Hễ chị thắng thì tôi nhào vô đánh hôi, hễ thấy chị thua thì hai chị em cùng dắt nhau… chạy!
Dưới tôi là hai cô em gái Hương, Trang. Hương từ nhỏ vốn hay để ý và lý sự như bà cụ non. Trang thì nhõng nhẽo hơn, hay khóc nhè, tôi thường bị mẹ la vì cái tật chọc ghẹo em. Như đã kể, tôi lọt vào ở giữa năm chị em gái. Không hiểu sao dòng họ Đặng đến thế hệ chúng tôi, nói cho vui chút có vẻ là "âm thịnh dương suy". Tôi ao ước có một thằng em trai. Mãi đến khi tôi mười tuổi, mẹ mới sanh em Đạt! Đã lâu mẹ mới sanh em bé, chúng tôi thương em lắm. Đạt hồi nhỏ bụ bẫm không khó nuôi như tôi. Trong cái xóm nhỏ quê mùa ấy, có một tiệm kem mới mở gần nhà, gắn máy lạnh mở nhạc xập xình từ sáng đến tối, đã là một cái gì văn minh hiện đại lắm. Một buổi chiều cơm nước xong, bố lấy xe đèo cả lũ đi ăn kem. Đạt mới vừa biết nói, nói chuyện líu lo như con sáo cả ngày, em bập bẹ cũng đòi theo. Tội nghiệp cho cái xe Honda của bố, nó phải đèo "bốn quả mít", ăn kem xong em thích chí cười toe.
Cũng năm ấy chị Chi lên xe hoa về nhà chồng, À, tôi quên nói, ngoài những cá tính trên Chị Chi còn là một cô gái có tâm hồn lãng mạn. Hồi đó tôi thường nghe ông nội và bà ngoại tôi hay nói: "Nhà có con gái lớn như chứa những quả bom nổ chậm!" Rồi nào là những câu như: "Khôn ba năm dại một giờ!". Thế là thế nào nhỉ? Nghĩ thật tức cười. Sau lớn lên mới hiểu đó là cái nhìn truyền thống của người Việt Nam trong xã hội xưa. Hồi đó, còn nhỏ tôi chả hiểu thế nào. Ngây thơ tôi nghĩ, chị tôi xinh đẹp hiền thục như vậy, ai nỡ lòng nào lại quẳng trái bom cho nổ? Rồi ai dại? Ai khôn? Thật là không hiểu nổi các ông bà tôi muốn nói gì? Thực sự không hiểu? Nhưng mà thôi, chả cần hiểu, chả cần biết làm chi, tôi chỉ biết nếu chị Hai đi lấy chồng, là nhà mình có đám cưới. Chúng tôi hãnh diện với đám trẻ con hàng xóm. Riêng tôi vui lắm vì nay tôi có một người anh.
Đạt lên ba, gần đến Tết con gà, Xuân Kỷ Dậu. Chúng tôi lại có thêm một em gái nữa, Trâm, em gái út của chúng tôi ra đời. Mẹ sanh em trong đêm khuya, buổi sáng còn đang ngái ngủ chị Khanh đánh thức tôi:
- Dậy dậy mau, mẹ sanh em bé gái rồi!
Nhà hộ sinh ngay trước cửa nhà, chỉ cách một con đường, chúng tôi liền chạy vụt sang. Em bé nằm trong nôi đỏ hỏn, nhỏ xíu không bụ bẫm như Đạt. Tự nhiên tôi thương em bé lắm. Nhìn bé chúng tôi đứa nào cũng tranh nhau muốn bế em một chút nhưng mẹ khẽ bảo:
- Cẩn thận nào, coi chừng đánh rớt em!
Tôi tò mò thắc mắc hỏi:
- Mẹ à! Em bé tên gì vậy?
Hương và chị Khanh nhanh nhẩu đáp:
- Mai Trâm!
Tôi lẩm bẩm:
- A! Mai Trâm, tên đẹp quá! Ai đặt vậy?
Mẹ cười nói:
- Mấy chị đặt tên cho em đấy.
Bé Trâm ra đời trong hoàn cảnh không được may mắn như các anh chị. Một biến cố lớn suýt xảy ra cho gia đình tôi. Ngay sau khi sanh bé Trâm mẹ bị bệnh hậu sản rất nghiêm trọng, hậu quả của những ngày tháng làm việc quá sức, không được nghỉ ngơi an dưỡng đầy đủ trong lúc mang thai. Đến xế trưa cả nhà đang ăn cơm, chợt nhà hộ sinh cho người sang bảo với ông nội:
- Mời ông cụ sang coi bà giáo hình như bị lên kinh gì đó!
Suốt mấy năm qua vì làm việc quá vất vả, lại lo nghĩ nhiều, mẹ bị băng huyết hậu sản. Dạo này bố tôi đã nhận thêm việc làm trong sở tư nên bố đã đi làm từ sáng sớm. Ngay cả như hôm nay, bố vẫn đang trong sở làm mặc dù là 26 Tết. Thấy các người lớn vẻ mặt đầy nghiêm trọng, chúng tôi biết hình như có chuyện chẳng lành. Bố không có nhà nên ông nội phân công. Chị Diệp ở trong nhà hộ sinh trông chừng săn sóc mẹ, Chị Khanh đi báo tin cho bà ngoại tôi.
Bà ngoại hay tin hối hả nói phải đưa mẹ đi bệnh viện ngay. Bà ngoại sai tôi ra đầu đường đón taxi. Tôi phóng xe đạp đến hai ba cây số mới kiếm được, bảo ông tài xế chạy thẳng đến nhà hộ sinh nơi mẹ sanh em bé. Tôi còn nhỏ nhưng đủ trí khôn để biết có gì đó không may xảy đến cho mẹ. Tôi đạp xe về theo vừa đi vừa cầu trời khẩn Phật, ông bà phù hộ cho mẹ. Lòng nhủ thầm, mẹ ơi! Mẹ đừng có chuyện gì nhé! Tôi về đến nhà thì taxi đã đưa mẹ đi bệnh viện rồi. Bà ngoại và chị Diệp cũng đi theo. Bà ngoại tôi bao giờ cũng là người quyết định rất nhanh và quả quyết. Nếu như bà ngoại không đưa mẹ đi nhà thương gấp, ngày ấy chúng tôi không biết sẽ ra sao?
Nắng chiều đang tắt dần, đêm đến thật nhanh. Chúng tôi mấy đứa từ chị Khanh trở xuống ở nhà cùng với ông bà nội. Ông nội ngồi trầm ngâm ít nói hơn thường ngày, thỉnh thoảng ông đưa mắt nhìn ra đường ngóng chừng bố tôi về. Bà nội lâm râm đang thắp hương cúng vái trước bàn thờ Phật. Chị Khanh lui hui dọn cơm cho ông bà nội và chúng tôi ăn. Mâm cơm vừa dọn lên thì bố đi làm về, hình như vừa đến đầu xóm bố đã biết, tin dữ bao giờ cũng đi mau. Vừa dựng xe bố liền đưa mắt hỏi:
- Mẹ đâu rồi?
Chúng tôi bốn đứa nghẹn ngào mắt đỏ hoe rưng rưng lưng tròng. Bố hỏi chuyện ông nội vài câu xong chẳng kịp ăn. Bố chạy vội sang bên nhà hộ sinh thăm em Trâm một lát, rồi lại hối hả phóng xe chạy thẳng lên nhà thương Saint Paul. Đó là một trong những nhà thương lớn nhất của thành phố Sài Gòn thời bấy giờ. Tôi muốn đòi đi theo nhưng bố không cho đành phải ở nhà. Ngồi trước mâm cơm tẻ nhạt chúng tôi chẳng đứa nào thiết ăn uống, ông bà nội cũng vậy. Ông nội gõ gõ cái tẩu thuốc lá buông tiếng thở dài nói:
- Ông không đói lắm, các cháu cứ ăn trước đi, thắp đèn lên, dọn dẹp rồi đi ngủ sớm.
Xong ông nội đứng dậy bắc ghế ra ngồi trước hàng hiên trầm ngâm. Ông nội cầm điếu thuốc gắn vào tẩu, rồi bật diêm. Đốm lửa đỏ hồng lên từ đầu điếu thuốc, một vầng khói mờ ảo lung linh bao lấy khuôn mặt đầy suy tư của ông. Bữa cơm chiều qua loa rồi cũng xong. Trời đã sập tối, bà nội đang đút cơm cho em Đạt, trong khi chị Khanh lui hui thu dọn chén bát đem đi rửa. Hương và Trang đang giặt khăn lau nhà. Chẳng ai buồn nói chuyện. Ai cũng có việc để làm, riêng tôi chẳng biết làm gì, tôi cứ đi ra đi vào, cứ hết nhìn người này rồi lại nhìn người khác. Tôi, thật đúng là một thằng ăn hại!
Bé Trâm tối hôm đó phải nằm ngủ trong nhà hộ sinh một mình. Tối đến, dọn dẹp nhà cửa xong chị Khanh rủ tôi và Hương, Trang lén chạy sang thăm em bé. Chúng tôi vây quanh cái nôi nhỏ xíu nhìn bé Trâm còn đỏ hon bé tí teo, quấn trong tấm chăn em nằm thiêm thiếp ngủ. Tội nghiệp Trâm, trông em bé như con mèo, mới sanh chưa đầy một ngày, nhớ hơi mẹ em chưa biết bú sữa bình. Một lúc hình như Trâm đói bụng, em khẽ cựa mình khóc. Năm chị em chúng tôi nhớ mẹ tủi thân cũng ôm nhau... khóc !
Hôm sau chị Chi về nhà săn sóc bé Trâm thay mẹ. Từ bé đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi biết thế nào là một đêm dài khó ngủ. Qua mấy ngày gia đình tôi sống trong nỗi âu lo căng thẳng, mẹ đã qua thời kỳ nguy hiểm. Bố hỏi có đứa nào muốn đi bệnh viện. Chúng tôi cả bốn đứa cũng nhốn nháo đòi đi. Bố cho hết một loạt cả bốn đứa vào thăm mẹ. Mẹ vẫn còn yếu, chúng tôi ngồi bên giường líu lo nói chuyện nhau: "Bé Trâm ở nhà đã có chị Chi săn sóc, mẹ cứ yên tâm dưỡng bệnh". Còn hai ngày nữa là Tết rồi! Nhưng bác sĩ nói mẹ phải nằm nhà thương điều trị ít nhất là cả tuần nữa mới được về.
Nhớ mỗi năm cứ gần Tết là mẹ gói bánh chưng, có bà ngoại, bác và các anh của tôi xuống phụ. Mẹ gói nhiều lắm đến cả năm sáu chục cái, chất đầy nửa cái thùng phuy lớn. Nồi bánh lớn thường phải nấu đến quá nửa đêm mới chín. Năm nào tôi cũng ráng thức chờ vớt bánh ra nhưng có lần nào tôi chờ được. Chưa đến nửa đêm là đôi mắt tôi đã xụp xuống khiến tôi ngủ lăn quay. Buổi sáng tung mền dậy, chạy vụt xuống bếp, đã thấy bánh chưng được các anh vớt ra xếp đầy giường divan từ đêm khuya. Tôi tiếc lắm, nhưng anh tôi bảo: "Thôi để sang năm anh đánh thức em dậy vớt bánh nha". Rồi cứ thế lần lựa hết năm này qua năm khác, có năm nào tôi dậy nổi đâu, các anh cũng không nỡ đánh thức tôi. Tuổi thơ dễ thương, thật dễ nhớ, dễ quên.
Có người bảo rằng tuổi ấu thơ là bình minh của đời người. Ngày, đêm, ảnh hưởng thiết tha với khoảnh khắc ban sơ ấy. Có như thế chứ, bởi đã bao năm rồi, cái dáng Xuân rực rỡ từ những cội mai vàng trước ngõ, từ những bánh chưng xanh, tràng pháo đỏ, vẫn là những biểu tượng hiển hiện cho mỗi độ Xuân về. Trẻ con nôn nao háo hức cho đến Tết để được mặc quần áo mới, và tiền mừng tuổi.
Tết này, mẹ sanh em bé rồi lại nằm nhà thương, chúng tôi không được ăn bánh chưng của mẹ gói như mọi năm. Cả nhà đều vui vì mẹ đang khỏe lại dần dần. Mấy ngày Tết bà con hàng xóm đến chúc Tết và hỏi thăm chúc mừng gia đình tôi. Bố bận rộn tiếp khách mãi đến chiều hôm nay, mùng ba Tết, tôi mới được theo bố đi chúc Tết bà con... rồi bố xin được một cành bông giấy,
A! Thì ra tôi đã hiểu, tại sao bố lại yêu thích nâng niu những cành bông giấy đến như thế...
Tôi miên man thả hồn bềnh bồng trôi về quá khứ... Thoáng mùi cỏ non đâu đây, bố đang lái xe ngang qua một cánh đồng, đã gần về tới nhà rồi. Quãng đường này thường vắng người nhà cửa lưa thưa, bố lái xe nhanh hơn. Bố đã ngưng kể chuyện từ lúc nào. Bên tai tôi chỉ nghe tiếng gió vi vu, tiếng ếch nhái từ đồng ruộng còn thơm mùi lúa mạ. Ngọn gió đêm Xuân mang theo hơi sương lành lạnh. Tôi ngồi phía sau tay ôm cành bông giấy vòng ngang lưng bố, lòng tràn ngập niềm vui. Vui vì còn được nghỉ học cả tuần nữa, và trong túi cộm lên với những bao lì xì màu đỏ, với những đồng bạc giấy mới toanh còn thơm sực mùi mực mới in. Trong cái không khí ướt đẫm tình Xuân ấy, một niềm vui lớn không kể xiết đó là mẹ đã bình yên, chúng tôi vừa đi lên bệnh viện thăm mẹ hôm qua. Đêm nay đã là mùng Ba, hết Tết rồi! Ngày mai bố phải đi làm rồi.
Tôi ngước mặt nhìn lên bầu trời cao, khuất sau bóng cây, vầng trăng non như hình lưỡi liềm treo nghiêng nghiêng chếch bóng. Bầu trời đêm Xuân tím ngắt không một gợn mây, có những vì sao lấp lánh tận ngàn xa.