Chương 2

Đà Nẵng
Đà Nẵng, nơi tôi sinh ra và lớn lên với tuổi ấu thơ êm đềm và an bình. Vùng ký ức khởi đầu là đây. Tôi còn nhớ mang máng quanh làng, núi Sơn Trà, xa xa là Ngũ Hành Sơn, bãi Mỹ Khê, bãi Thanh Bình… Những buổi trưa nóng nực ông nội thường dắt lũ trẻ con chúng tôi ra tắm biển. Mẹ dạy học trong một ngôi trường nhỏ trong làng. Trước nhà tôi là con đường cái, đây cũng là con đường lớn duy nhất có trải đá xanh, một đầu dẫn lên Thị Xã Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, một đầu là con Phố Chợ nho nhỏ hàng quán lưa thưa. Miền thùy dương gió cát, đứng trên con đường cái gió biển lồng lộng thổi, tầm mắt có thể nhìn thấy rất xa. Lác đác những mái nhà tranh ẩn hiện bên hàng dừa xanh nghiêng bóng đổ. Còn lại là ruộng đồng im ắng xa tít tận cuối trời. Trên con đường cái ấy, lúc nào cũng êm ả, cả ngày chỉ có vài chiếc xe bò lóc cóc chở những đụn rơm đi ngang. Ở đây thực sự là cảnh đồng quê.
Thỉnh thoảng một vài chuyến xe hàng chạy ngang nhà. Những chuyến xe nối liền Đà Nẵng và con Phố Chợ. Mỗi lần thấy bóng chiếc xe từ đàng xa, lũ trẻ con chúng tôi vội rủ nhau chạy ùa ra đứng sát hai bên đường để xem. Phải, chỉ xem thôi chẳng biết để làm gì? Dù sao đây cũng là cái văn minh cơ giới mà chúng tôi có thể trông thấy được. Nó khác xa với những chiếc xe bò, xe ngựa của đồng quê, chúng tôi đã nhìn mãi quen chán mắt. Nói cho đúng, chiếc xe hàng có gì là văn minh hiện đại đâu. Trông nó già nua cũ kỹ đến là tội nghiệp! Cái mui xe trông mới thật thảm thương hơn, chất đầy hàng hoá, lỉnh kỉnh, những lồng gà, lồng vịt, đôi khi trong rọ có cả một vài con heo. Một lần xe ngừng lại chết máy, hàng khách đổ xuống hai bên đường nấp dưới bóng râm của gốc cây hóng mát chờ sửa xe. Bác tài ngồi sau tay lái, trong khi đó anh lơ xe cầm cây sắt thọc vào đầu máy và quay. Cả thân xe hục hặc rung mình như một người bị bệnh suyễn lâu năm, khạc ra một đám khói đen kịt. Anh loay hoay mãi một hồi lâu mồ hôi nhễ nhại. Sau một hồi vất vả, xe cũng nổ máy, anh lơ kêu mọi người lên xe. Trong xe chật ních, vài người còn đứng bám đu đưa trên cái cản gỗ phía sau xe nữa. “Con trâu già” ì ạch lăn bánh, thả những đám khói lẫn với bụi cát mịt mù. Xe chạy đi mất hút, đám trẻ con chúng tôi đứng bên lề đường trông theo nuối tiếc ngẩn ngơ. Rồi cánh đồng quê yên lặng lại trở về với cái tĩnh mịch bình thường của nó.
Nhà tôi đó, trong trí nhớ lãng đãng của tôi có lợp ngói màu nâu đỏ, vách ngăn bằng gỗ, nền tráng cement mát lạnh. Trước nhà hai cây soan già cằn cỗi, tàn lá không đủ rộng che nền sân trước nên mỗi khi chiều xuống, nắng vẫn như còn hâm hấp lên những viên gạch tàu xếp vuông vắn. Cũng cái sân lót gạch tương đối phẳng phiu này hàng xóm thường mượn để phơi lúa hay có khi là những lát khoai cắt mỏng.
Hai gian nhà trên, cách một khoảng sân là nhà bếp ở phía sau. Sân sau là một vườn hoa nho nhỏ. Đó là nơi tôi thích nhất vì có bóng râm mát. Ông nội tôi thường nằm võng ngủ trưa ở đây. Ông nội có một hòn non bộ nhỏ, trong đó dăm ba con cá vàng bơi lội. Trên hòn giả sơn là dàn thiên lý xanh mướt, đó là cái thế giới thu nhỏ lại của ông. Bà nội trồng vài cụm hành, một ít rau thơm và cây ăn trái quanh nhà. Cuối cùng là cái ao nhỏ nước phẳng lặng rêu xanh, thỉnh thoảng có ít bọt sủi lên, do cá đớp động dưới chân đám bèo hoa lấm tấm. Cạnh bờ ao là một cây sung không biết đã được trồng từ năm nào, thân cây to sần xùi có vài cành ngã oằn oại trên mặt nước. Các anh học trò lớn của mẹ thường tinh nghịch cõng tôi leo lên những cành sung ấy, rồi đu từ cành này sang cành khác như một lũ khỉ. Chơi chán các anh nhảy ùm xuống ao, để lại tôi một mình trên cành cây như con mèo nhỏ co rúm lại sợ ngã mà không dám tuột xuống.
Sau mỗi trận mưa, trời lại nắng hanh vàng, không hiểu sao bươm bướm ở đâu kéo về nhiều thế? Các chị học trò của mẹ, dắt mấy chị em tôi đuổi bắt những con bươm bướm màu sặc sỡ, bay lượn trong khoảnh vườn sau. Những hôm nắng ráo đẹp trời, các anh cõng tôi chạy rong chơi băng qua những cánh đồng lúa non xanh ngát, còn thơm mùi lúa mạ. Chúng tôi bắt những con châu chấu nhỏ xanh như màu lúa, đem về cho con sáo của bà nội ăn. Có hôm mạo hiểm chúng tôi đi xa hơn, để ngắt những bông hoa dại bên bờ ruộng đem về nhà chơi. Những bó hoa xinh xinh nho nhỏ, nhiều màu sắc ngây ngô như cái tuổi thơ vô tư hồn nhiên của chúng tôi.
Đó là những tháng năm thần tiên của ngày xưa còn bé. Cuộc sống bình dị, nơi thôn dã hiền hòa. Hồn quê đất Việt đã thấm trong tôi từ dạo ấy. Cảnh đồng quê khoảng khoát, không khí trong lành. Hương đồng cỏ nội là đây, cái mùi của quê hương cũng là đây. Phải, nó nồng nàn đậm đà lắm kìa! Nó ấm áp như tình mẹ! Thành thật mà nói, sau này có dịp đặt gót chân lên nhiều nơi trên xứ lạ, đi đến một số nơi nổi tiếng trên thế giới. Dù cảnh vật có đẹp đến mấy, có hùng vĩ, thơ mộng đến mấy, giữa trời đất mênh mông, tôi vẫn cảm thấy lòng như xa lạ, dửng dưng. Tôi vẫn chẳng bao giờ có được cái cảm giác giữa mình với thiên nhiên là một mối tâm cảm giao hòa. Quả thật, chưa bao giờ tôi tìm lại được cái mùi của quê hương dạo ấy. Cái mùi của làng quê tôi, mùi cỏ cây, đất bùn, phân bò, và nước đái trâu… nó hăng hăng quyện lẫn vào trong nắng gió. Chính nó đấy, cái mùi của tuổi thơ với làng mạc quê hương. Như đứa trẻ thơ quen hơi sữa mẹ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức trong tôi khó phai nhoà.
Đến một ngày, vì công việc bố mẹ lại đổi chỗ ở vào Sài Gòn. Trước ngày chia tay hàng xóm láng giềng mang quà đến tiễn đầy nhà. Họ chả có gì ngoài cây trái trong vườn, như trái dừa tươi, rổ đậu phọng, nải chuối hương… Quà không có chi đáng giá nhưng nói lên tâm tình mộc mạc của người dân quê. Mấy anh chị học trò của mẹ, cũng đến lăng xăng phụ giúp dọn nhà và sắp xếp hành lý. Hành trang cũng chẳng có gì, đơn sơ nhẹ tênh, nhưng tình xóm giềng nặng trĩu đầy ắp ân tình. Chạnh nghĩ, lần trước bố mẹ tôi từ Bắc vào Trung, ngậm ngùi với nước non ngàn dặm ra đi… Lần này từ Trung xuôi về Nam, con đường thiên lý cũng xa vời vợi, khó lòng có ngày được gặp lại nhau. Mỗi chặng đường, mỗi khoảnh đời đó, dường như đã bám vào gia đình tôi thêm một mảnh tình lưu luyến.
Buổi sáng sớm mờ sương, trời hãy còn chưa sáng tỏ, mẹ đã đánh thức chúng tôi dậy. Một ít người hàng xóm, và học trò của mẹ, họ đến để đưa tiễn chúng tôi ra mãi tận sân ga. Lần đầu tiên trước sân ga Đà Nẵng. Thằng bé con như tôi từ nhà quê ra tỉnh bỗng choáng ngợp với cảnh phồn hoa. Nhà cửa san sát nhau, phố xá nhộn nhịp, xe cộ chạy ngược xuôi. Chiếc xe hàng dừng lại ở ga Đà Nẵng. Ơ kìa, người đâu sao mà đông thế! Người ta chen lấn nhau qua lại, hành lý chất đầy ngổn ngang trước sân ga. Tiếng người gọi nhau, tiếng heo kêu, tiếng gà vịt, những con chó chạy lăng quăng, cảnh nhộn nhịp huyên náo, âm thanh hỗn độn huyên náo khác hẳn với cái êm ả của đồng quê. Mấy chị em tôi đứng tụm vào một góc có ông bà nội trông chừng, trong khi mẹ đi mua vé tàu. Mẹ dặn kỹ không được chạy lung tung kẻo lạc. Tôi vừa nắm chặt tay ông nội vừa ngóng cổ nhìn dáo dác cảnh vật xung quanh.
Nhìn đầu máy xe lửa to lớn như một cái nhà, móc theo cả mấy chục toa tàu. Chiếc bánh xe lửa bằng sắt to như cái thúng, rồi đường rầy cũng bằng sắt nữa. Những ống hơi, dây điện chằng chịt dưới gầm xe. Nhiều toa tàu nối liền với nhau trông con tàu như một con rết khổng lồ, chúng tôi thi nhau đếm, nào là một toa, hai toa, ba toa, bốn toa… Tôi say mê ngắm nhìn tỏ vẻ thích thú lắm. Ồ! Đây mới thật sự là văn minh cơ giới!
Mẹ đã trở lại với mấy tấm vé tàu. Đã đến lúc chia tay, còi tàu hụ lên những tiếng như giục giã. Mấy anh chị học trò lớn của mẹ giúp chúng tôi lên tàu, xếp đặt thu dọn chỗ ngồi. Trong toa tàu, tôi nhón gót nhìn qua khung cửa sổ, ngoài kia những bàn tay vẫy những bàn tay, những chiếc khăn màu bay thổn thức. Bịn rịn, ngậm ngùi… Hình như có những khuôn mặt đang rươm rướm nước mắt. Trong toa tàu cảnh nhộn nhịp không kém bên ngoài, chật chội và ồn ào. Cả gia đình tôi chỉ có một khoảng không gian nhỏ hẹp. Mẹ đang lục trong giỏ soạn ra những nắm cơm lo phần ăn trưa cho cả nhà. Tôi ngồi sát trong lòng ông nội. Con tàu khẽ chuyển mình, tiếng bánh xe bằng sắt nghiến trên đường rầy tạo thành những âm thanh không dễ chịu chút nào. Cảnh vật hai bên đường lùi lại phía sau, Đà Nẵng mỗi lúc một dần xa, một dần xa…
Tạm biệt Đà Nẵng, không ngờ cho mãi đến hơn bốn mươi năm sau tôi mới có dịp cùng với mẹ trở lại nơi này. Mẹ tôi cho ngừng xe lại ở một khoảng đường áng chừng là nếp nhà cũ năm xưa, mẹ có hỏi thăm vài người xem ai còn, ai mất. Hai mẹ con đều thất vọng vì cảnh vật cũng đã đổi thay và người xưa cũng chẳng còn ai quen biết. Bao nhiêu năm qua biết bao vật đổi sao dời, đời người trôi nổi, cảnh vật cũng nổi trôi...
Ngày ấy, rời Đà Nẵng lên xe lửa vào Sài Gòn tôi còn nhỏ, chưa biết buồn vấn vương nhiều khi chia tay. Nhưng tôi đã hiểu một cách lờ mờ là từ nay, tôi sẽ không còn được những anh học trò lớn của mẹ, cõng đi rong chơi khắp thôn xóm làng quê nữa. Thôi nhé, từ nay đã hết rồi những tháng ngày êm ả rong chơi của tuổi thơ. Bức tranh quá khứ dần dần đậm nét bằng những vệt màu ngây dại.
0 Comments:
Post a Comment
<< Home